Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm 1938 đến 1945. Tài năng điêu khắc của Jonchère, cùng với các chủ trương đào tạo mới trong nhiệm kỳ của ông, đã tạo ra một số ảnh hưởng tích cực đối với nền mỹ thuật Việt Nam. Nhân kỷ niệm 100 năm thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, việc tìm hiểu về Évariste Jonchère cũng như sáng tác nghệ thuật và những đóng góp của ông đối với mỹ thuật góp phần để hiểu rõ hơn về lịch sử ngôi trường này và mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Évariste Jonchère, Thi Ai(Chân dung Thị Ái)1933. Đất nung. 24 x 15 x 20 (cm).
Nguồn: 10, tr.84
1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Évariste Jonchère (1892 - 1956)
Căn cứ vào công trình Évariste Jonchère do Roger Gain hợp tác với người vợ của ông là bà Évariste Jonchère Debiol xuất bản năm 1991 [10] và các bài báo đã viết về ông1, có thể khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Évariste Jonchère như sau:
Victor Jules Évariste Jonchère, thường gọi là Évariste Jonchère, sinh ngày 8 tháng 7 năm 1892 tại Coulonges-les-Hérolles, Vienne, Pháp. Ông trở thành sinh viên của trường Mỹ thuật Paris2vào năm 1908 và theo học tại xưởng của Antonin Mercié3. Ông trưng bày các tác phẩm điêu khắc của mình lần đầu tiên tại Triển lãm Nghệ sĩ Pháp4 vào năm 1909. Năm 1910, ông giành được thành tích đầu tiên, huy chương đồng của nhóm nghệ thuật Vincennes5.
Évariste Jonchère, Les vendanges (Vụ thu hoạch – Mùa hái nho), Grand prix de Rome 1925, Thạch cao, 180 x 127 x 37 (cm).Nguồn: 10, tr.35
Sau khi Jonchère tốt nghiệp, Antonin Mercié khuyên người học trò của mình thực hiện nghĩa vụ quân sự trong hai năm để sau đó có thể tập trung cống hiến cho nghệ thuật. Tuy nhiên, không ai có thể lường trước rằng châu Âu sẽ chìm trong biển lửa khi Thế chiến I nổ ra vào năm 1914. Mãi đến năm 1919, Jonchère mới xuất ngũ. Ông trở lại trường và làm việc trong xưởng của nhà điêu khắc Jean Boucher. Sự chênh lệch tuổi tác giữa Jonchère, người đã trải qua nhiều năm chiến tranh với các đồng nghiệp trẻ hơn khiến ông khó hòa nhập và sớm rời khỏi xưởng. Ông mua lại một trang trại ở Lignerolles và có ý định trở thành người nông dân, tuy nhiên niềm đam mê đối với điêu khắc của ông vẫn không nguôi. Évariste Jonchère tham gia thực hiện một số công trình đài tưởng niệm chiến tranh ở thị trấn Belvèze và Limoux. Sự kiên trì và tài năng của ông đã được đền đáp khi ông giành được giải thưởng hạng nhất Grand prix de Rome danh giá năm 19256. Đây là học bổng thường niên dành cho các nghệ sĩ triển vọng, tạo cơ hội cho các nghệ sĩ trẻ được đào tạo tại Rome. Ông đạt huy chương bạc Triển lãm Nghệ sĩ Pháp7 năm 1928. Năm 1930, Jonchère định cư gần Butte Montmartre ở Paris, đây là nơi ông gặp bà Lucienne Debiol, người vợ tương lai của mình, tại Salon des Tuileries8. Jonchère giảng dạy tại Trường Nghệ thuật và Thiết kế Le Havre-Rouen9 và tiếp tục giành nhiều giải thưởng như huy chương vàng Triển lãm Nghệ sĩ Pháp năm 1930, giải thưởng của Hiệp hội nghệ sĩ thuộc địa Pháp10 năm 1931.
Năm 1932, Jonchère giành được giải thưởng Đông Dương (Prix de l'Indochine) do Hiệp hội Nghệ sĩ Thuộc địa Pháp tổ chức, giúp ông có cơ hội du lịch khắp Đông Dương trong hai năm. Trong chuyến đi này ông đã ghé thăm Việt Nam, Lào và khám phá các nền văn hóa khác nhau dưới chính quyền thuộc địa của Pháp. Khi trở về nước, danh tiếng của ông tiếp tục tăng khiến các đơn đặt hàng về tranh và tượng đổ về, song Jonchère vẫn mơ được quay trở lại những vùng đất xứ Đông Dương. Ông đã viết cho Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa: “Tôi tin rằng mình có thể đảm nhiệm vị trí quản lý một trường Mỹ thuật cũng như các bộ phận chuyên môn về nghệ thuật trang trí và thủ công” [10; tr.23]. Sau sự ra đi của hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương, Victor Tardieu vào năm 1937, Évariste Jonchère được chọn kế nhiệm vị trí này năm 1938 nhờ danh tiếng và nhiều giải thưởng mỹ thuật quan trọng ông đã đạt được. Ông đầu tư nhiều vào việc phát triển nghệ thuật truyền thống Đông Dương, [10; tr.24], cũng như thành lập Hợp tác xã các nghệ sĩ Đông Dương11. Tuy nhiên, nỗ lực này đã bị gián đoạn bởi Chiến tranh thế giới thứ hai. Tháng 12 năm 1943, do các cuộc oanh tạc của quân Đồng minh, trường Mỹ thuật Đông Dương phải sơ tán khỏi Hà Nội, chia thành ba bộ phận tại ba địa điểm khác nhau. Khoa Kiến trúc và phần lớn khoa Điêu khắc do Évariste Jonchère phụ trách được chuyển đến Đà Lạt. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, trường Mỹ thuật Đông Dương bị giải thể.
Évariste Jonchère và Lucienne Debiol kết hôn ngày 4 tháng 12 năm 1945 tại Hà Nội, sau đó đã đến Châu Phi vào năm 1946. Cùng năm đó, Jonchère giành được Prix Arthur Le Duc, giải thưởng điêu khắc cho Tượng đài Tướng Leclerc12. Năm 1952, ông được bổ nhiệm làm giám đốc Trường Thủ công và Nghệ thuật ở Brazzaville, Congo. Jonchère tiếp tục phát triển nghệ thuật thủ công địa phương, như ông đã làm trước đây ở Đông Dương. Ông và vợ quay trở lại Paris vào năm 1954 và tiếp tục nhận được đơn đặt hàng. Lúc này do sức khỏe yếu nên ông cần sự giúp đỡ để hoàn thành các tác phẩm. Sau khi Évariste Jonchère qua đời năm 1956, bà Lucienne Jonchère Debiol, đã quyên góp hơn 80 tác phẩm cho Nhạc viện nghệ thuật và lịch sử13 tại Annecy, Haute-Savoie [4]. Một phần các tác phẩm này được triển lãm thường xuyên tại đây và Musée des Années Trente14 ở Boulogne-Billancourt. Nhằm tưởng nhớ chồng mình, năm 2010, bà lập ra Giải thưởng Évariste Jonchère thông qua Quỹ Taylor. Giải thưởng này được trao hàng năm cho một nhà điêu khắc từ 30 tuổi trở lên15.
2. Những sáng tác tôn vinh vẻ đẹp người Việt Nam của Évariste Jonchère
Trong lần đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1933, Évariste Jonchère đã tìm thấy nguồn cảm hứng từ cuộc sống của người dân Bắc Kỳ. Tác phẩm Paysanne de la rivière (Người phụ nữ nông dân bên sông) là một trong những tác phẩm đầu tiên mà ông thực hiện tại Việt Nam. Bức tượng cao 61 cm, được đúc bằng đồng, mô tả hình tượng một người phụ nữ mặc áo yếm, đầu đội khăn - một hình ảnh quen thuộc của những người phụ nữ lao động thời bấy giờ. Dù không tập trung vào các đặc điểm cụ thể của người mẫu, Évariste Jonchère khéo léo nhấn mạnh những nét đặc trưng tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn đó. Bruno Gaudichon, trợ lý giám tuyển tại Bảo tàng Poitiers năm 1987 nhận xét: “Ban đầu theo Véronique Reynaud, bức tượng này được thực hiện trong thời gian Jonchère lưu trú lần thứ hai tại Đông Dương. Tuy nhiên, những yếu tố quan sát về tính dân tộc học đặc trưng cho các tác phẩm được tạo ra vào năm 1933 trong chuyến đi đầu tiên của nghệ sĩ đến Đông Dương, nhưng những yếu tố này bị giảm bớt bởi mối quan tâm đến sự sang trọng cổ điển. Điều này đã giúp làm sống động nghệ thuật điêu khắc trong thời kỳ phương Đông thứ 2 của ông”16.
Không giống như những người bị mê hoặc bởi các khía cạnh phô trương và hoa lệ của phương Đông, Évariste Jonchère tôn vinh sự sang trọng giản dị và vẻ đẹp của người Việt Nam. Tượng đồng Congaïe couture (Người thiếu nữ) được hoàn thành vào năm 1940 là minh chứng cho tài năng tuyệt vời của nhà điêu khắc. Hình tượng người thiếu nữ này thể hiện sự duyên dáng của những người bản địa trẻ tuổi, cô đi chân không, mặc trang phục truyền thống và cầm chiếc nón lá ở tay trái. Vóc dáng kiêu kỳ và sự sang trọng đơn giản không trau chuốt của cô được thể hiện một cách tinh tế, khuôn mặt trẻ trung có nét khiêm tốn bình an. Jonchère thể hiện sự hiện diện chân thành của người mẫu. Bản thạch cao để đúc tác phẩm này của nghệ sĩ hiện được lưu giữ tại Viện Nghệ thuật và Lịch sử của Haute-Savoie ở Annecy.
Tác phẩm Jeune femme Vietnamienne/Torse de femme Annamite (Người phụ nữ trẻ Việt Nam/ Thân hình người thiếu nữ An Nam) tượng cao 86cm, thể hiện thân người thiếu nữ hơi đung đưa, nghiêng đầu duyên dáng. Drouot, một trong những sàn đấu giá nổi tiếng ở Paris nhận xét, “Cách thức mà ông ấy lựa chọn, hình mẫu của ông được lấy cảm hứng theo truyền thống của Rodin, và sự chăm chút dành cho việc thực hiện tác phẩm bộc lộ tất cả sự gợi cảm của người mẫu, được tôn vinh như một lý tưởng nữ tính”17. Bức tượng có nhiều phiên bản, những phiên bản đầu tiên bao gồm 4 bản bằng đất nung được làm vào năm 1944, một số bản sao đúc bằng bột đá18, một số bản bằng thạch cao và đồng. Bản duy nhất bằng đồng được patine vàng được vợ ông bán lại hiện thuộc sở hữu của Drouot.
Évariste Jonchère, Jeune femme Vietnamienne / Torse de femme Annamite(Người phụ nữ trẻ Việt Nam / Thân hình người thiếu nữ An Nam), 1943 – 1944, Đồng, 85 x 35 x 20(cm). Nguồn: 10, tr.117
Tượng chân dung Thi-Aï (Thị Ái), chất liệu đồng cao 24 cm, được sáng tác vào năm 1933 tại Biên Hòa, là một ví dụ tiêu biểu cho sự tinh tế trong nghệ thuật điêu khắc điêu khắc chân dung. Tác phẩm khắc họa Thi-Aï, con gái của người giúp việc trong căn biệt thự mà chính phủ đã cấp cho Jonchère khi ông lần đầu tiên đến Sài Gòn vào khoảng năm 1934. Bức tượng được ký tên bởi tác giả phía sau gáy, một chi tiết quan trọng thể hiện dấu ấn cá nhân của Jonchère trong tác phẩm. Gương mặt của Thị Ái với nét ngây thơ trong sáng, đặc biệt tập trung vào các chi tiết như đôi mắt, sống mũi và đôi môi, phản ánh vẻ đẹp tự nhiên của em bé Việt Nam. Sự chăm chút vào các chi tiết, từ biểu cảm gương mặt cho đến hình khối tổng thể, đã mang lại chiều sâu và sự sống động cho tác phẩm. Phiên bản đất nung của bức tượng này đã được bà E. Jonchère Debiol, người thừa kế của nghệ sĩ, quyên tặng cho khoa Haute-Savoie vào năm 1978 và hiện được lưu giữ tại Nhạc viện Nghệ thuật và Lịch sử Haute-Savoie, Annecy.
Chủ đề về cuộc sống của người dân Việt Nam cũng được tìm thấy trong các tác phẩm khác, ví dụ như trong tác phẩm Le repos (Nghỉ ngơi) bằng đồng, miêu tả một người đàn ông đang nghỉ ngơi sau khi đi chợ về, ngồi xổm trên cột mốc, hai tay dang rộng trên đầu gối, dưới chân có hai giỏ trái cây. Theo bà Jonchère cho biết, tác phẩm này được Évariste Jonchère thực hiện trong một chuyến đi vào Sài Gòn [10, tr.20]
Évariste Jonchère, Le repos (Nghỉ ngơi),1939, Đồng, 48 x 35 x 28 (cm).Nguồn: 10, tr.86
Notre-Dame de France et d'Indochine thường được gọi là Bức tượng Đức Mẹ Ban Ơn ở Nhà thờ Domaine de Marie, Đà Lạt, được Évariste Jonchère thực hiện vào năm 1943. Tác phẩm làm theo đơn đặt hàng của bà Suzanne Humbert, phu nhân toàn quyền Đông Dương Jean Decoux, được đưa từ Hà Nội về Đồi Mai Anh, Đà Lạt vào ngày 15 tháng 8 năm 1944 (ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời). Hình tượng Đức Mẹ đứng trên quả địa cầu được tạc theo hình mẫu của phụ nữ Việt Nam. Tác phẩm gốc đã mất tích trong chiến tranh. Mặc dù hiện nay chỉ còn tác phẩm tượng đá được phục chế lại, nhưng cũng là dấu ấn một thời của Évariste Jonchère, và cũng là tấm lòng của một vị phu nhân Toàn quyền Đông Dương với mảnh đất Đà Lạt. Theo thông tin trong cuốn sách Évariste Jonchère (1991) của Roger Gain, phần ghi chú các tác phẩm cho biết hiện nay có 4 phiên bản của mẫu tượng Đức Mẹ Ban Ơn: Tượng nguyên bản bằng thạch cao được vợ ông hiến tặng cho Conservatoire d'art et d'histoire, Nhạc viện nghệ thuật và lịch sử tại Annecy, Haute-Savoie năm 1978; 1 phiên bản nhỏ bằng thạch cao và 1 phiên bản nhỏ bằng đồng trong sưu tập của bà E. Jonchère Debiol; Tượng đá được phục chế lại tại nhà nguyện các Sơ Saint-Vincent de Paul ở Đà Lạt.
Nghệ thuật điêu khắc của Jonchère không chỉ khắc họa hình ảnh con người Việt Nam, mà còn tôn vinh vẻ đẹp mộc mạc, giản dị mà thanh lịch của họ. Ông đã sử dụng phương pháp tạo hình của nghệ thuật châu Âu để thể hiện một cách tinh tế sự thấu hiểu và đồng cảm với văn hóa địa phương, góp phần tạo nên những tác phẩm vừa mang dấu ấn cá nhân, vừa phản ánh chiều sâu của văn hóa Đông Dương và vẻ đẹp của người Việt Nam.
3. Từ quan điểm gây tranh cãi đến đóng góp của Évariste Jonchère đối với mỹ thuật Việt Nam
Với tài năng nghệ thuật và kinh nghiệm giảng dạy, Jonchère đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo các nghệ sĩ điêu khắc ở Việt Nam. Ông đã giảng dạy điêu khắc cho các khóa V, IX vào năm 1933 và từ năm 1938, khi lên làm hiệu trưởng, ông tiếp tục giảng dạy cho đến khóa XVIII [1; tr.47]. Trong cuốn Điêu khắc hiện đại Việt Nam, khi viết về đặc điểm điêu khắc giai đoạn Mỹ thuật Đông Dương, Đinh Gia Lê cho rằng, một số nhà điêu khắc chịu ảnh hưởng của trào lưu Tân cổ điển do đường lối của nhà trường và phong cách sáng tác từ những giáo sư người Pháp như Évariste Jonchère và Ponchin. “Sự ảnh hưởng này được thấy rõ trong chủ đề cũng như kỹ thuật thể hiện của một số nhà điêu khắc Việt trong giai đoạn này như Georges Khánh, Vũ Cao Đàm, và Phạm Gia Giang...”[5; tr.143]. Đây là nhận định hợp lý, bởi Évariste Jonchère là người duy nhất có chuyên môn sâu về điêu khắc trong giai đoạn từ 1925 - 1945, nên ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo và ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật của các nhà điêu khắc Việt Nam thời kỳ này.
Nhiệm kỳ của Évariste Jonchère tại trường Mỹ thuật Đông Dương từ 1938 đến 1944 được đánh dấu bằng sự tăng cường đào tạo về nghệ thuật ứng dụng. Năm 1938, trường đổi tên là Cao đẳng Mỹ thuật và Nghệ thuật thực hành Đông Dương [9; tr.8]. Trong thời gian làm hiệu trưởng, Évariste Jonchère đề cao giá trị của các nghề thủ công truyền thống và xây dựng các xưởng mỹ nghệ và gốm tại trường. Trước đó, sơn mài chỉ là một môn học thử nghiệm, nhưng dưới thời Jonchère, nó đã trở thành một môn học cơ bản trong khoa hội họa, khẳng định giá trị và tiềm năng của nghệ thuật này. Ông đã mở rộng chương trình đào tạo, không chỉ tập trung vào hội họa, điêu khắc, và kiến trúc mà còn bổ sung các học phần về sơn mài, gốm sứ, chạm khắc gỗ và kim loại [6; tr.35,36]. Điều này tạo điều kiện cho các nghệ sĩ học hỏi và phát triển trong nhiều lĩnh vực khác nhau, giúp họ mở rộng kỹ thuật và sự hiểu biết về các chất liệu, nghệ thuật truyền thống. Jonchère đã góp phần tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của nghệ thuật ứng dụng, giúp thúc đẩy các nghệ sĩ Việt Nam khai phá và phát triển tiềm năng sáng tạo của mình trong các lĩnh vực nghệ thuật thủ công.
Khác với người tiền nhiệm Victor Tardieu, ban đầu Évariste Jonchère ít tin tưởng vào tài năng của các sinh viên và ít hy vọng về tương lai của nghệ thuật Việt Nam, ông đã phát biểu với báo giới khi mới sang Việt Nam rằng, “Tôi đi Hà Nội chuyến này chỉ muốn đào tạo những thợ mỹ thuật chứ không phải những nhà nghệ sĩ. Cái giỏi của Đông Dương là một thứ khéo léo rõ rệt. Vậy ta không nên đợi ở họ những tác phẩm về cảm hứng, vân vân…” [3; tr.9]. Tuy nhiên, sau khi Jonchère khám phá nghệ thuật Việt Nam và nhận ra tài năng hội họa của Nguyễn Gia Trí, ông dần trở nên cởi mở hơn và trân trọng các nghệ sĩ Việt Nam tài năng. Jonchère đã đích thân đến xưởng họa của Nguyễn Gia Trí và bị chinh phục trước những bức tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí [2].
Jonchère cùng với Joseph Inguimberty đã sáng lập tổ chức Coopération des Artistes Indochinois (Hợp tác xã các nghệ sĩ Đông Dương) vào năm 1938 để giới thiệu và bán các tác phẩm của các học sinh mới ra trường. Tổ chức này có nhiệm vụ tìm kiếm cho các hội viên sự giúp đỡ vật chất và tinh thần bằng cách kiếm các đơn đặt hàng, giúp cung cấp nguyên liệu cho các nghệ sĩ, nhưng trên hết là bán các tác phẩm. Doanh thu từ việc bán tác phẩm của các nghệ sĩ trong tổ chức này vào các năm 1938, 1939 và 1940 gấp nhiều lần so với các triển lãm trước [6; tr.39]. Một số sinh viên ủng hộ Jonchère, trong khi những người khác phản đối ông, dẫn đến sự phân chia thành các nhóm bảo vệ quan điểm của mình. Những người theo phe Victor Tardieu tin rằng hội họa cần tiếp nối truyền thống nghệ thuật bản địa lâu đời, đã thành lập nhóm FARTA19 (Câu lạc bộ nghệ thuật An Nam). Ngược lại, những người ủng hộ Évariste Jonchère tập trung phát triển nghệ thuật thủ công và mỹ nghệ thì hoạt động trong Hợp tác xã các nghệ sĩ Đông Dương. Nora Taylor nhận xét, các nhóm tranh đua này đã không kéo dài, vào năm 1945, khi cuộc đảo chính của Nhật Bản tại Hà Nội dẫn đến việc đóng cửa trường Mỹ thuật Đông Dương, hai phe đối chọi đã mất hết mọi ý nghĩa [7].
Với tư cách là một nhà điêu khắc, giảng viên và hiệu trưởng trường Mỹ thuật Đông Dương, Évariste Jonchère đã góp phần lan tỏa những tư duy và thẩm mỹ của mỹ thuật phương Tây, đồng thời khuyến khích sự phát triển nghệ thuật truyền thống Việt Nam./.
Ths.Lê Quý Đức Chú thích: 1. Các bài báo Pháp viết về Évariste Jonchère trong thời gian 1925 đến 1937: - Le Journal no.11967 (23/7/1925), tr.1. - Comœdiano.5255 (23 May 1927), tr.1. - Le Journal no.13675 (27 March 1930), tr.4. - Vanderpyl, “Salons et Expositions: La sculpture – La gravure – Les arts appliqués”, Le Petit Parisien no. 20153 (3 May 1932), tr.5. - C. Lemaire, Évariste Jonchère, Extrême-Asie no.71 (December 1932). - Pris-soir no.5096 (9 June 1937), tr.4. 2. Tên tiếng Pháp: l'École des beaux-arts de Paris. 3. Antonin Mercié (1845-1916) là nhà điêu khắc, họa sĩ và người làm huy chương người Pháp. Antonin Mercié là một trong những nhà điêu khắc thành công và nổi tiếng nhất trong giai đoạn cho đến Thế chiến thứ nhất. 4. Tên tiếng Pháp: Salon des artistes français. 5. Tên tiếng Pháp: Groupe artistique de Vincenne. 6. Xem Grande Masse Des Beaux-Arts. Grands Prix de Rome de Sculpture (2/2). https://www.grandemasse.org/breves_historiques/grands-prix-de-rome-de-sculpture-2-2/ 7. Tên tiếng Pháp: Salon des artistes Français. 8. Salon des Tuileries là triển lãm nghệ thuật thường niên về hội họa và điêu khắc được thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1923, và hoạt động cho đến thập niên 1950. 9. Tên tiếng Pháp: École supérieure des beaux-arts du Havre-Rouen. 10. Tên tiếng Pháp: Société coloniale des artistes français. 11. Tên tiếng Pháp: Coopération des Artistes Indochinois. 12. Xem Le rythme africain - Les musées - Ville de boulogne-billancourt https://musees.boulognebillancourt.com/fr/notice/1994-47-3-le-rythme-africain-f3194aff-d152-436d-8e32-97c3d8e0f6bf 13. Tên tiếng Pháp: Conservatoire d'art et d'histoire. 14. Musée des Années Trente là là một bảo tàng thành phố chuyên về mỹ thuật, nghệ thuật trang trí và mỹ thuật công nghiệp của những năm 1930. 15. Xem https://www.taylor.fr/grand-prix/prix-evariste-jonchere 16. Xem https://drouot.com/en/l/23691713-evariste-jonchere-1892-1956-1er-grand-prix-de-rome-de 17. Xem https://drouot.com/fr/l/22552879-evariste-jonchere-1892-1956-premier-grand-prix-de-rome-de 18. Thuật ngữ tiếng Anh: “reconstituted stone”. 19. FARTA viết tắt của Foyer de l’Art Annamite. Tài liệu tham khảo: 1. Lê Quốc Bảo (Chủ biên), Phan Cẩm Thượng, Nguyễn Thanh Mai, Bàng Thục Bân (1990), Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội 1925-1990. 2. Nguyễn Văn Chiến (2023), “Chuyện sơn mài trong xưởng họa của Nguyễn Gia Trí”. Tạp chí Mỹ thuật online. https://tapchimythuat.vn/chuyen-ben-gia-ve/chuyen-son-mai-trong-xuong-hoa-cua-nguyen-gia-tri/ 3. Nguyễn Đỗ Cung và đồng ý với các họa sĩ Lưu Văn Sìn, Trần Văn Cẩn, Hoàng Lập Ngôn, Lương Xuân Nhị và Nguyễn Khang (1939), “Những sự cải cách của trường Mỹ thuật Đông Dương”. Báo Ngày nay số 144, năm 1939, trang 9. 4. Corinne Chorier (2002), “La collection Évariste Jonchère (1892-1951) Conservatoire d’art et d’histoire de Haute-Savoie” [Bộ sưu tập Évariste Jonchère (1892-1951) Nhạc viện Nghệ thuật và Lịch sử Haute-Savoie]. La rubrique Des Patrimoines de Savoie, 4ème trimestre 2002, ISSN 1288-1635. 5. Đinh Gia Lê (2016), Điêu khắc hiện đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục. Hà Nội. 6. Nhiều tác giả (1977), Mỹ thuật Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tập 2. Tư liệu của Viện Bảo tàng Mỹ thuật. Ký hiệu D 276/BT. 7. Nora Taylor (2014), “Sự thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và Chính sách hội họa tại Việt Nam thời Thuộc địa, 1925-1945”. http://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/9366-su-thanh-lap-truong-cao-dang-my-thuat-dong-duong-va-chinh-sach-hoi-hoa-tai-viet-nam-thoi-thuoc-dia,1925-1945. 8. Paris - Hanoï - Saïgon, l'aventure de l'art moderne au Viêt Nam, 1998. http://asiep.free.fr/printempsvietnam/par-han-sai.html. Ngày truy cập 15 tháng 9 năm 2024. 9. Quang Phòng - Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương Lịch sử và Nghệ thuật. Nhà Xuất bản Mỹ thuật. 10. Roger Gain (1991), Évariste Jonchère. Avec la collaboration de Mme Évariste Jonchère Debiol Publisher: Adam Biro. SCULPTOR ÉVARISTE JONCHÈRE AND HIS CONTRIBUTIONS TO VIETNAMESE FINE ARTS Abstract: Évariste Jonchère (1892-1956) was a French sculptor and painter who served as principal of the Indochina School of Fine Arts (École des Beaux-Arts de l’Indochine) in Hanoi from 1938 to 1945. Jonchère's sculptural talent, along with his new training policies during his tenure, had caused positive effects on Vietnamese fine arts. On the occasion of the 100th founding anniversary of the Indochina School of Fine Arts, now the Vietnam University of Fine Arts, learning about Évariste Jonchère as well as his artistic creations and contributions to fine arts will help better understand the history of this school and modern Vietnamese fine arts. Keywords: Évariste Jonchère, Indochina fine arts, sculpture, modern Vietnamese fine arts.
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...
Évariste Jonchère (1892-1956) là nhà điêu khắc và họa sĩ người Pháp, giữ chức hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội từ năm ...