Kể từ khai giảng khóa học đầu tiên vào ngày 15 tháng 11 năm 1925 đến nay, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam đã không ngừng tạo ra những đóng góp quan trọng cho nền mỹ thuật hiện đại nước nhà và những cống hiến không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ, xây dựng Tổ quốc. Những dấu ấn của quá trình phát triển nhà trường luôn gắn với sự nghiệp kiến tạo mỹ thuật hiện đại và phụng sự đất nước. Thông qua hệ thống tư liệu lịch sử tin cậy và bình luận khoa học, bài viết khẳng định sứ mệnh và vai trò lịch sử ấy của trường từ ngày đầu với tên gọi Trường Mỹ thuật Đông Dương đến Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ngày nay. Mỗi giai đoạn nhà trường đều đặt các chương trình đào tạo gắn liền với nhu cầu của cải cách xã hội và hiện đại hóa, với các nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, mang tính thời đại của đất nước: từ chiến đấu giải phóng dân tộc, thống nhất non sông đến xây dựng đời sống và con người mới. Cùng với việc đưa các quan điểm mỹ học, chủ đề sáng tác gắn với chiến tranh cách mạng, lao động sản xuất, công cuộc tôn vinh và quảng bá văn hóa dân tộc, những chuyển biến của xã hội trong chặng đường hội nhập quốc tế, nhà trường luôn thể hiện là trung tâm của những thay đổi mang tính dẫn dắt về ngôn ngữ tạo hình, các hình thức biểu đạt mới trong sáng tác mỹ thuật. Không chỉ đóng góp vào sự định hình phong cách, tư tưởng nghệ thuật của mỹ thuật hiện đại Việt Nam qua các giai đoạn, mà các thế hệ thầy và trò nhà trường còn trực tiếp sống, chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập dân tộc, hòa bình và hạnh phúc của nhân dân.
PGS.Ts Nguyễn Nghĩa Phương
Tô Ngọc Vân, Trên sân nhà, 1930, sơn dầu, 80x98cm
Nguồn: sách của A-R Charlotte.
Chúng ta đều hiểu rằng một nền mỹ thuật không tự nhiên mà có, nó được kiến tạo bởi con người trong những bối cảnh lịch sử và văn hóa đặc thù.
Lý thuyết kiến tạo (Constructivism) được hình thành vào đầu thế kỷ 20 từ các nghiên cứu của hai nhà khoa học Jean Piaget (Thụy Sỹ) và Jerome Bruner (Hoa Kỳ). Họ quan tâm đến quá trình tâm lý phát sinh nhận thức, kiến tạo tri thức của mỗi con người hay cộng đồng, trong đó nhấn mạnh quá trình kiến tạo nội sinh dẫn đến sáng tạo theo một cách riêng. Từ Lý thuyết kiến tạo nảy sinh những nhánh khác nhau, trong đó có Lý thuyết kiến tạo xã hội và Kiến tạo văn hóa [7]. Theo đó, kiến tạo mang nghĩa như là quá trình học tập, sáng tạo, đồng hóa, điều chỉnh nhờ vào các yếu tố khách quan và chủ quan để tạo nên một tri thức, một văn hóa. Ở các từ điển ngôn ngữ, kiến tạo được giải nghĩa là quá trình kiến thiết, tạo dựng nên một cái gì đó lớn lao, bao trùm một lĩnh vực hoạt động hay toàn bộ các hoạt động của một cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Nghệ thuật được tạo ra bởi quá trình sáng tạo của con người, được nảy sinh và bồi đắp liên tục theo thời gian. Mỗi nền nghệ thuật đều được hình thành, phát triển bởi tập thể trong bối cảnh và và diễn trình nhất định, đó là quá trình kiến tạo nghệ thuật [5]. Quá trình ấy là sự vận động liên tục trong những tiếp xúc, tiếp biến văn hóa. Kiến tạo nghệ thuật nằm trong quá trình kiến tạo văn hóa với các thành phần chính gồm: chủ thể kiến tạo, môi trường kiến tạo, cơ chế kiến tạo. Như vậy, một nền nghệ thuật là “sản phẩm” của quá trình kiến tạo bởi tập thể cùng chia sẻ những giá trị thẩm mỹ và cách làm, có thể phân biệt rõ với cộng đồng khác, được tiếp biến, di truyền, tiến hóa hoặc có thể lụi tàn. Nó luôn vận động, thích ứng với những thay đổi thời cuộc, thay thế cái cũ bằng cái mới để kiến tạo chính mình, để tái sinh ở một bình diện mới. Quá trình kiến tạo nghệ thuật đó được vận hành bởi sự tổng hòa những sáng tạo cá nhân, di sản truyền thống, không khí tinh thần thời đại ở quy mô rộng lớn và duy trì được đủ dài để khẳng định dấu ấn phong cách riêng, quan niệm thẩm mỹ riêng.
Nền Mỹ thuật Việt Nam được kiến tạo qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước, giữ nước cho đến hôm nay. Trong đó, nền Mỹ thuật hiện đại được ghi dấu vào đầu thế kỷ 20 và trở nên rõ nét, mạnh mẽ từ khi có Trường Mỹ thuật Đông Dương, nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. “Việc giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Đông Dương dưới sự chỉ đạo của Victor Tardieu (1925-1937) và Evariste Jonchère (1938-1945), không còn nghi ngờ gì nữa, đã cho ra đời Nghệ thuật hiện đại Việt Nam” [1, tr. 37]. Nền nghệ thuật đó được kiến tạo bởi một tập thể lớn, trên bình diện quốc gia, dân tộc và có đầy đủ những đặc sắc riêng để phân biệt rõ với những nền mỹ thuật có chung bối cảnh trong khu vực và thế giới. Cho dù trải qua những khúc quanh khác nhau, nền mỹ thuật ấy vẫn thấm đẫm tinh thần lạc quan, dung dị được di truyền từ quá khứ, sinh khí thời đại, nhịp đập của mỗi con tim nghệ sĩ. Điều đặc biệt, những sự biến chuyển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại luôn được xuất phát từ mô hình đào tạo của Trường Mỹ thuật Đông Dương - Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam với phương châm xuyên suốt: dung hòa những giá trị truyền thống dân tộc với tiếp thu, sáng tạo cái mới trong phản ánh tinh thần thời đại, hướng tới hội nhập với bên ngoài bằng những giá trị riêng.
Kể từ ngày khai giảng đầu tiên, 15/11/1925, tới hôm nay là một thế kỷ phát triển của nhà trường gắn với quá trình định hình nền mỹ thuật và thực hiện những nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước ở các giai đoạn lịch sử của nước Việt Nam hiện đại. “Khai giảng một khóa học là công việc bình thường của các trường học, nhưng đối với Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, đây là điểm mốc lịch sử quan trọng. Nói đến lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam không thể không nhắc đến vai trò của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, cái nôi đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà kiến trúc, nhà nghiên cứu, phê bình mỹ thuật tài năng cho đất nước” [9, tr. 5]. Lịch sử 100 năm của nhà trường cho thấy, đây không chỉ là trung tâm đào tạo mỹ thuật hàng đầu ở trong nước và khu vực, nó còn có vai trò đóng góp chính vào quá trình kiến tạo nền mỹ thuật hiện đại của Việt Nam. Lịch sử ấy được chia thành 2 thời kỳ quan trọng: 1925 - 1945 và từ 1945 trở về sau với nhiều giai đoạn nhỏ. Mỗi giai đoạn đều rất rõ nét và gắn liền với bối cảnh lịch sử xã hội, tư tưởng chủ đạo trong đất nước. Thời kỳ 1925 - 1945 là những bước đi đầu để tạo dựng nền móng cho sự hình thành một cách bài bản, đúng đắn của một nền mỹ thuật mới chưa từng có thông qua chủ trương dung hợp cảm thức và tư tưởng thẩm mỹ Á đông với khoa học tạo hình châu Âu, và sau đó phong cách Đông Dương của mỹ thuật hiện đại Việt Nam được ghi nhận rộng rãi trên trường quốc tế. Đây cũng là giai đoạn mà xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi mang tính bước ngoặt theo hướng hiện đại hóa, hội nhập, nhất là về tư tưởng, văn hóa và nghệ thuật. Trong đó mỹ thuật và các sinh viên, họa sĩ trưởng thành từ Trường Mỹ thuật Đông Dương có những đóng góp cụ thể và quan trọng cho công cuộc cải cách xã hội ấy.
Tiếp đó, “từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, sự nghiệp đào tạo của Nhà trường không ngừng lớn mạnh cùng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc” [9, tr.7]; và “nói đến lịch sử mỹ thuật cận hiện đại Việt Nam không thể không nói tới vai trò của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - cái nôi đào tạo các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc - các tác giả, tác phẩm làm nên lịch sử mỹ thuật hiện đại và là những người giảng viên mỹ thuật đầu tiên của Việt Nam” [9, tr.9]. Ngay sau khi Trường Mỹ thuật được mở lại tại chiến khu Việt Bắc với khóa học được đặt tên hết sức đặc biệt “Khóa Kháng chiến”, trong lễ khai giảng ngày 1/9/1950 thầy Hiệu trưởng Tô Ngọc Vân đã khẳng định: “... Bằng cách đem hội họa phụng sự nhân dân, làm đẹp cuộc đời của nhân dân, hướng dẫn để nâng cao trình độ thưởng thức hội họa của nhân dân. Đứng trên lập trường ấy, chúng ta ghi câu khẩu hiệu: Hội họa là một công tác. Người vẽ là một cán bộ. Ở đây, chúng ta đồng tình với những bậc tiền bối danh sư của hội họa cổ điển, đem nghệ thuật mà phục vụ một đạo. Nhưng, cái đạo của chúng ta là đạo làm người của nhân dân” [12]. Theo đường lối Dân tộc - Khoa học - Đại chúng, nhà trường áp dụng phương pháp học tập kết hợp với công tác, học trong công tác, lấy nhân dân lao động làm đối tượng phục vụ. Trong ba năm học, các sinh viên đã tổ chức được 6 cuộc triển lãm chính. Những cuộc triển lãm này không phải ở trong các bảo tàng, gallery, khách sạn, mà nó đến trực tiếp tới người dân trong các hoạt động chính sách, những cuộc vận động lớn của Đảng và chính phủ... Năm 1951, tại Chiêm Hóa, trong khuôn khổ Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc, Tô Ngọc Vân nhận xét về các tác phẩm của sinh viên khóa Kháng chiến rằng: “ý thức phục vụ thật rắn rỏi, cái tình phụng sự thật đằm thắm” [12].
Ở cả hai thời kỳ lớn này, các chương trình học của nhà trường luôn được cải thiện, thay đổi linh hoạt để thích ứng, đáp ứng trực tiếp nhu cầu xã hội và các nhiệm vụ cấp thiết của đời sống trong từng giai đoạn nhỏ. Đó là những căn cứ để khẳng định sự gắn bó và vai trò của Trường Mỹ thuật Đông Dương - Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam trong tiến trình kiến tạo nền mỹ thuật hiện đại và phụng sự đất nước trải dài suốt hành trình kiến thiết, bảo vệ và phát triển một Việt Nam giàu mạnh.
1. Lịch sử nhà trường qua các mốc thời gian và tên gọi
Giai đoạn 20 năm đầu của nhà trường (Trường Mỹ thuật Đông Dương - EBAI) gặp rất nhiều khó khăn trong duy trì hoạt động và phát triển, nhưng đó cũng là chặng đường quan trọng đầu tiên để nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam được kiến tạo. Với sứ mệnh đề ra và chủ trương đào tạo theo mô hình trường Mỹ thuật Paris, vị hiệu trưởng đầu tiên và các thế hệ sinh viên đã mong muốn tạo nên một diện mạo mới của mỹ thuật Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, dựa trên tư tưởng giáo dục khai phóng và quan điểm khoa học về tiếp biến văn hóa… Ngay trong giai đoạn này, các bài học và tác phẩm của sinh viên trường EBAI với cái nhìn thẩm mỹ riêng biệt đã hình thành nên phong cách nghệ thuật Đông Dương một cách rõ nét. Sinh viên của EBAI đã định hình một nghệ thuật mới mang bản sắc độc đáo, đầy đủ tính phổ quát và tính dân tộc để có thể nhận diện trong bối cảnh mỹ thuật các quốc gia Đông Nam Á, Nam Á cùng chung số phận chuyển đổi từ mô hình dân gian truyền thống sang Âu hóa dưới sự chi phối, dẫn dắt bởi các chính quyền thực dân, thuộc địa. Cái đẹp giản dị, giàu tính trang trí, ước lệ ở các sáng tác của sinh viên, họa sĩ tốt nghiệp trường này những năm 1925-1935 chuyển dần sang hiện thực khái quát tiếp sau đó cùng các phẩm chất khoa học tạo hình châu Âu đã trở thành những yếu tố định danh cho mỹ thuật Việt Nam hiện đại trước năm 1945.
Trải qua 20 năm với 3 tên gọi được thay đổi bởi các Nghị định của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương. Từ 27/10/1924: Trường Mỹ thuật Đông Dương. Từ 25/4/1938, Trường Cao đẳng Mỹ thuật và Mỹ thuật ứng dụng Đông Dương, thường được gọi tắt là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương). Đến 22/10/1942 trường tách làm đôi, gồm Cao đẳng Mỹ thuật (Hội họa, Sơn mài, Điêu khắc, Kiến trúc) và Trường Mỹ thuật ứng dụng (Gốm, Đồ gỗ, Điêu khắc ứng dụng và đúc đồng, Thảm, Đan lát). Từ lúc này danh xưng Đông Dương không còn trong tên trường. Tháng 12/1943 lực lượng đồng minh thuộc quân đội Mỹ ném bom Hà Nội, trường tạm dừng hoạt động và chia làm các nhóm tỏa đi 3 địa phương: Sơn Tây, Hà Nam, Đà Lạt để tiếp tục đào tạo. Năm 1943, trường Cao đẳng Mỹ thuật có 125 sinh viên, Trường Mỹ thuật ứng dụng gồm có 37 sinh viên. Toàn quyền từng đưa ra một số kế hoạch hết sức to lớn: xây dựng những khu nhà hiện đại nhất, phù hợp với hoạt động của 2 ngôi trường này. Tuy nhiên, kể từ ngày 10/3/1945 nhà trường buộc phải dừng hoạt động do Chính quyền thực dân Pháp không còn tồn tại sau cuộc đảo chính của Nhật [4].
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2 tháng 9 Việt Nam trở thành nước độc lập. Ngày 08/10/1945, dưới một chính thể mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe đã ký Nghị định cho phép khai giảng trở lại Trường Cao đẳng Mỹ thuật) và bổ nhiệm họa sĩ Tô Ngọc Vân (vốn đang là giáo sư của trường trước tháng 8/1945) làm hiệu trưởng. Văn bản này khẳng định sự tiếp tục hoạt động của nhà trường sau khoảng 7 tháng bị gián đoạn do quá trình thay đổi chính thể từ nhà nước thuộc địa sang nhà nước độc lập của Việt Nam. Điều đó cũng cho thấy sự quan tâm đặc biệt của chính quyền nhân dân tới mỹ thuật và vai trò của đào tạo mỹ thuật trong hệ thống giáo dục và các thiết chế văn hóa, nghệ thuật của đất nước. Nhà trường tiếp tục tuyển sinh vào năm 1945 và năm 1946, nhưng đều phải dừng đào tạo vì diễn ra cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp từ cuối năm 1946. Suốt từ lúc này đến năm 1950 trường không thể hoạt động vì những khó khăn của cuộc kháng chiến mà toàn dân tộc phải đứng lên để giành lại đất nước, cho dù ngày 14/9/1948 Nghị định số 489, Chính phủ đã cử họa sĩ Tô Ngọc Vân tổ chức lại Trường Cao đẳng Mỹ thuật tại Chiến khu Việt Bắc [12] (bởi theo văn bản năm 1945, ông vẫn đương chức Hiệu trưởng). Ngày 28/12/1950 Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên ký Nghị định số 605-ND đổi Trường Cao đẳng Mỹ thuật thành Trường Mỹ thuật trung cấp, không có phân chia ngành học, môn học cụ thể. Ngày 20/8/1957 Phó thủ tướng Phan Kế Toại ký Nghị định chuyển trường thành Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam đặt trực thuộc Bộ Văn hóa. Lúc này trường có hai ngành học là Hội họa và Điêu khắc với chương trình học 4 năm.
Đến 9/1981 trường được đổi tên thành Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Từ năm 2008 có tên gọi mới là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam với nhiệm vụ trọng tâm trong dẫn dắt đào tạo và sáng tác mỹ thuật theo định hướng hội nhập quốc tế, phát huy và quảng bá các giá trị văn hóa nghệ thuật Việt Nam ra thế giới.
2. Quan điểm, các hệ, ngành đào tạo của nhà trường với quá trình kiến tạo mỹ thuật hiện đại và phụng sự đất nước
Sự thật lịch sử đã cho thấy, quan điểm, các hệ, các ngành và chương trình đào tạo của nhà trường thông qua các hoạt động đào tạo, nghiên cứu, sáng tác đã tác động rõ nét đến phong cách tạo hình và trào lưu sáng tác, góp phần định hình, kiến tạo nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Sự tác động đó không chỉ về quy mô nhân lực mà còn đến chất lượng và rộng hơn là khuynh hướng, trào lưu sáng tác mỹ thuật chủ đạo ở Việt Nam trong một thế kỷ qua. Tham gia vào quá trình kiến tạo nền mỹ thuật hiện đại cũng chính là phụng sự công cuộc phát triển văn hóa của đất nước. Cùng với đó là những nhiệm vụ, hoạt động cống hiến cụ thể, trực tiếp của các thế hệ thầy và trò nhà trường góp phần vào sự nghiệp chung của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ hòa bình và phát triển đất nước.
Ngay từ quá trình thành lập và suốt những năm tồn tại của giai đoạn Đông Dương, quan điểm đào tạo của nhà trường dưới sự dẫn dắt của vị hiệu trưởng đầu tiên Victor Tardieu đã mang đậm tinh thần nhân văn với mục tiêu kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa, mỹ thuật An Nam trong học tập các tiêu chuẩn thẩm mỹ chung của nhân loại, khoa học tạo hình Châu Âu cùng triết lý khai phóng. Triết lý này không được tuyên bố một cách cụ thể, nhưng nó thể hiện khá rõ thông qua các quan điểm của người sáng lập và đội ngũ liên quan chính sách văn hóa nghệ thuật trong chính quyền thuộc địa. Sau 2 năm khai giảng, năm 1927, sinh viên Tô Ngọc Vân đã thay mặt sinh viên trường phát biểu và đã được đăng trên báo chí đương thời: “Thay vì bóp nghẹt sự tự do diễn giải của chúng em, các thầy đã để chúng em tự mình sáng tạo. Các thầy thận trọng trong lời nói, chỉ đưa ra những nguyên tắc chung, chấp nhận cách chúng em thể hiện bản thân mà không áp đặt điều gì” [1, tr. 45]. Hoạt động của trường và nội dung chương trình giảng dạy được mô phỏng theo Trường Mỹ thuật Paris, đồng thời có những tích hợp với đào tạo chuyên sâu về nghệ thuật truyền thống An Nam [1, tr. 39]. Những người tham gia vào quá trình thành lập nhà trường đều nhất trí rằng: giáo dục, nuôi dưỡng thị hiếu, làm cho người An Nam hiểu được lợi ích khi không từ bỏ nghệ thuật truyền thống trong mong muốn tạo ra những điều mới mẻ; cung cấp cho họ quy trình cao cấp của kỹ thuật Châu Âu nhưng cần đảm bảo rằng những đặc trưng thiết yếu của mỹ thuật An Nam sẽ được cộng hưởng và bảo tồn, phát huy bởi sinh viên… định hướng cho họ về những quy luật chung của thẩm mỹ, khuyến khích họ tìm cảm hứng trực tiếp từ thiên nhiên một cách đơn giản và chân thành [1, tr. 35-37]. Chương trình học được đề ra cụ thể với các tiêu chí, tiêu chuẩn rõ ràng và vẫn còn nguyên giá trị, thậm chí mang đầy đủ tính hiện đại của của giáo dục đại học ngày nay [8]. Đến nay, chúng ta đều không thể phủ nhận sự thật là “Trên nền tảng nghệ thuật truyền thống rộng lớn phương Đông và văn hóa tạo hình của dân tộc, một trường đào tạo nghệ thuật cấp đại học ra đời, tạo cơ sở khoa học để thức dậy và làm đẹp thêm nghệ thuật dân tộc; bắc cầu nối giữa nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật của nhân loại” [10, tr.5]. Theo phương châm phục hưng mỹ thuật An Nam với diện mạo mới qua kế thừa, phát triển tinh thần thẩm mỹ Á Đông, nhà trường đã khích lệ người học phát triển sáng tạo cá nhân tiềm ẩn qua các chất liệu truyền thống và kỹ thuật tạo hình hiện đại, khoa học. Bên cạnh các chất liệu, hình thức tạo hình phương Tây, tranh lụa, tranh sơn mài và khắc gỗ được chú ý đầu tư phát triển. Đặc biệt những bài học trực họa, ký họa ngoài thiên nhiên không chỉ tạo nên sự khác biệt của nhà trường vào thời gian đó, mà còn trở thành đường lối “học từ thiên nhiên” được áp dụng trong đào tạo mỹ thuật những năm sau này ở Việt Nam. Chính vì một chương trình cởi mở, mang tính nền tảng, nên ngoài những công việc liên quan sáng tác tranh, tượng, các họa sĩ, kiến trúc sư, nhà điêu khắc tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương còn là những nhà cải cách xã hội, tham gia hiện đại hóa trang phục, nhà cửa ở nông thôn, kiến trúc đô thị, trang trí và minh họa sách, báo, vẽ tranh áp phích quảng cáo, tem bưu chính, tạo mẫu và sản xuất đồ nội thất… Tất cả những tác phẩm, sản phẩm mà họ sáng tạo đều mang đậm dấu ấn riêng làm nên phong cách Đông Dương nổi tiếng toàn cầu. Qua đó định hình diện mạo mỹ thuật Việt Nam hiện đại trên trường quốc tế, đặc biệt là ở Hội họa và Kiến trúc. Giai đoạn này của trường tuy không dài nhưng đã tạo dựng được nền móng vững chắc mang đậm bản sắc Việt của mỹ thuật hiện đại, không chỉ làm nên giá trị cho riêng nó mà còn là bệ phóng cho những giai đoạn tiếp sau với những thay đổi lớn về quan niệm nghệ thuật.
Vũ Giáng Hương, Bài học khắc gỗ - khóa Tô Ngọc Vân, 1956.
Nguồn: Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam
Kể từ trong lòng cuộc Cách mạng Tháng tám cho đến khi khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các họa sĩ tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương đã tích cực hưởng ứng, tham gia vào các hoạt động giành chính quyền, ủng hộ chính quyền mới bằng phương tiện mỹ thuật. Để rồi sau khi khai giảng trở lại và tiếp theo là kháng chiến chống Pháp, họ trở thành những cánh chim đầu đàn trong sáng tác, đào tạo mỹ thuật phục vụ cách mạnh và nhân dân, trực tiếp chiến đấu cho nền độc lập và hòa bình của dân tộc. Họ đã dâng hiến tất cả cho hoạt động mỹ thuật phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp với rất nhiều sáng tác và ghi chép phong phú về các hoạt động của hầu hết các thành phần xã hội tham gia đời sống chiến sự đầy gian khó nhưng hào hùng của đất nước qua những hình thức: tranh cổ động, tuyên truyền, trực họa, ký họa... Chính trong thời gian khó khăn về mọi mặt này, từ sự thiếu thốn về điều kiện thể hiện các tác phẩm hội họa, điêu khắc, các hình thức đồ họa như tranh in (khắc gỗ, in đá), tranh cổ động, tranh tuyên truyền được phát triển mạnh. Do đó, họ trở thành những người đã đưa các hình thức đồ họa lên tầm cao mới cả ở phương diện nghệ thuật và phương tiện chính trị, tạo nền tảng thực tiễn cho sự ghi nhận đồ họa như một nghệ thuật lớn và được chú ý phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Với tình hình đất nước giai đoạn kháng chiến chống Pháp và sau ngày hòa bình lặp lại ở miền Bắc, từ năm 1950 đến 1957 Trường Mỹ thuật trung cấp phải thực hiện đào tạo trong bối cảnh vô cùng khó khăn nhưng đã tạo nên tiếng vang lớn với 2 khóa nổi tiếng: “khóa Kháng chiến” và “khóa Tô Ngọc Vân”. Khóa Kháng chiến, còn được gọi là “Trường Mỹ thuật Kháng chiến” do Tô Ngọc Vân làm Hiệu trưởng, diễn ra trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, không có trường hợp thứ hai trong lịch sử đào tạo mỹ thuật thế giới. Với việc phải di chuyển liên tục do chiến tranh và cũng để phục vụ các nhiệm vụ mà cuộc chiến đòi hỏi, trường chỉ có thể đào tạo tại chỗ, ở các cánh rừng nơi chiến khu, với các môn học chính yếu để thực hành vẽ tranh, không dạy các môn lý thuyết hay theo một chương trình cụ thể. Tất cả nhằm chủ yếu đến phục vụ công tác tuyên truyền, cổ động. Với phương châm “học trong cuộc sống” của nhà trường, chúng ta có thể thấy quan điểm “học từ thực tiễn” từ thời Mỹ thuật Đông Dương được tiếp nối, chuyển hóa tính chất để phục vụ thực tiễn kháng chiến chống ngoại xâm của toàn dân tộc. Phương pháp dạy và học mang tính chắt lọc, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức thực tế giữa thầy và trò trong không khí cùng ăn, cùng ở, cùng phục vụ chiến sỹ, nhân dân và kháng chiến. Lịch sử nhà trường cho thấy khóa Kháng chiến với cách đào tạo tập trung vào thực hành trong điều kiện chiến tranh đã tôi rèn bản lĩnh, tinh thần cách mạng và tay nghề vững vàng cho các sinh viên. Trách nhiệm của một công dân đã được đặt lên trước nhất trong hoàn cảnh xã hội đương thời, để về sau, trong bất cứ lĩnh vực mỹ thuật nào cũng có người của khóa Kháng chiến đi đầu. Sau khóa học, họ đều trở thành những họa sĩ nòng cốt trong xây dựng nền mỹ thuật cách mạng của Việt Nam mang bản sắc riêng, vừa mạnh mẽ, vừa lãng mạn, ở đó truyền thống thẩm mỹ dân tộc hòa quyện đẹp đẽ với cách biểu đạt mang tinh thần hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cũng từ khóa học này, giá trị của hiện thực từ các bức vẽ trực họa, ký họa được tôn vinh về cả mặt nghệ thuật và lịch sử, trở thành học phần quan trọng trong nhà trường suốt từ khóa Tô Ngọc Vân cho đến tận hôm nay.
Do đặc điểm lịch sử, yêu cầu của xã hội, nhà trường đã đặt ra quan điểm, mục tiêu, phương thức đào tạo thích hợp với mỗi giai đoạn. Từ 1955 - 1975 nhà trường đã vận dụng nhiều hình thức đào tạo khác nhau để cùng một lúc có thể đáp ứng được nhiều yêu cầu khác nhau về nhân lực hoạt động mỹ thuật. Các lớp ngắn hạn, các khóa học hệ sơ cấp, trung cấp, tại chức lần lượt được triển khai.
“Khóa Tô Ngọc Vân” đã trở thành một cột mốc quan trọng của nhà trường và nền mỹ thuật Việt Nam. Lúc này trường đã trở về địa chỉ 42 phố Yết Kiêu với hệ thống cơ sở vật chất tối thiểu. Tuy chỉ tồn tại trong 3 năm học từ 1955 đến 1957 nhưng khóa này đã tạo ra đội ngũ họa sĩ và giảng viên mỹ thuật xuất sắc, góp phần phát triển mỹ thuật trong những ngành nghề mới như sân khấu, điện ảnh, xuất bản sách báo... Tiếp nối quan điểm đào tạo hình thành trong “khóa Kháng chiến” ở hoàn cảnh vừa hòa bình vừa có chiến tranh, thực tế đất nước đã trở thành chủ đề phổ biến trong nội dung bài học và các sáng tác của thầy và trò nhà trường. Bên cạnh các đề tài về người lính, việc vẽ về đời sống mới ở nông thôn, vùng núi được đặt ra như nhiệm vụ của tất cả sinh viên. Đặc biệt, chính trong những năm này, đề tài công nhân, công nghiệp bắt đầu xuất hiện trong một nhãn quan nghệ thuật và hình thức hoàn toàn mới - hiện thực xã hội chủ nghĩa. Để khắc phục những khó khăn về các chất liệu hội họa, tranh khắc gỗ được triển khai phổ biến trong chương trình đào tạo của nhà trường. Với những bài học bắt buộc như: tranh khắc gỗ màu theo phong cách dân tộc, tranh khắc gỗ đen trắng theo phong cách mới (từ Trung Quốc) các thầy đã hướng sinh viên biết cách dung hòa trong phát triển nhận thức nghệ thuật của mỗi cá nhân và kết quả đã tạo ra một phong cách tranh khắc gỗ đậm đà chất Việt, không trùng với thẩm mỹ Đông Dương và không dập khuôn ngôn ngữ tạo hình của bên ngoài. Có thể nói, chính những bài học này đã tạo quá trình chuyển hóa để thiết lập tính nhận diện của tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam mang bản sắc riêng và kéo dài đến tận những năm đầu thế kỷ 21. Không những thế, phong cách tranh khắc gỗ còn được vận dụng để góp phần vào phát triển phong cách hội họa với khuynh hướng tạo hình ước lệ, khái quát lấy mảng phẳng và nét viền đậm, khỏe làm phương tiện biểu đạt.
Với quyết định cho phép kéo dài khóa “Tô Ngọc Vân” thêm 2 năm để có thể cấp bằng cao đẳng cho sinh viên và việc đổi tên thành Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam năm 1957, trường có thêm ngành Điêu khắc dưới sự phụ trách của Diệp Minh Châu, người được đào tạo điêu khắc tại Tiệp Khắc xã hội chủ nghĩa. Từ đây, quan điểm sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa được áp dụng trong định hướng đào tạo điêu khắc của trường. Quan điểm sáng tác này còn trở nên chắc chắn và trở thành khuynh hướng chủ đạo chi phối chương trình và phương pháp đào tạo khi trường được các chuyên gia từ Liên Xô sang tham gia đào tạo, hướng dẫn từ 1960 đến 1963 - họa sĩ Kuznhetsov và nhà điêu khắc Ghivi. Việc xây dựng chương trình và cách đánh giá trong đào tạo mỹ thuật của Liên Xô được áp dụng tại trường với hầu hết các bài học chuyên môn, từ hình họa nghiên cứu, tượng tròn đến các bài học sáng tác hội họa, điêu khắc, đồ họa. Phương pháp xây dựng hình tượng con người theo quan điểm hiện thực Xã hội Chủ nghĩa được quán triệt và trở thành chủ đạo trong bài học sáng tác của sinh viên và từ đó lan tỏa ra đời sống mỹ thuật của đất nước. Tranh cổ động được phát triển mạnh trong hệ thống bài học và đa phần những tác giả đầu tiên, đóng vai trò chủ chốt về kiến tạo phong cách tranh cổ động chính trị-xã hội của Việt Nam đều từng là sinh viên, giảng viên của trường giai đoạn 1955-1965 và sau đó.
Giai đoạn mang tên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, cùng với hệ cao đẳng, trường có các hệ trung cấp 2 năm (duy nhất 1 khóa 1956-1958), 3 năm (giai đoạn 1957-1966) được mở nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu về cán bộ mỹ thuật cho các cơ sở và phong trào mỹ thuật chung. Hệ sơ-trung 7 năm (giai đoạn 1960-1965) và sau đó rút còn 5 năm (1966-1982) đào tạo một cách có hệ thống hơn để vừa đáp ứng yêu cầu cán bộ trước mắt, vừa phát hiện tài năng, tạo nguồn cho cấp cao đẳng, đại học, hướng tới tạo ra các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc chuyên nghiệp cho mục tiêu lâu dài. Từ 1965 đào tạo hệ đại học tại chức 5 năm nhằm tạo nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời cán bộ mỹ thuật có trình độ đại học cho các địa phương, các đơn vị quân đội, các cơ quan nhà nước trong điều kiện vừa xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ để giải phóng miền Nam.
Lê Anh Vân, Bài chuyên khoa lụa, cuối những năm 1970
Nguồn: Bài lưu tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam
Ngoài ra, trong những năm 1960, trường được giao nhiệm vụ mở các khóa học ngắn hạn để kịp thời cung cấp nguồn nhân lực mỹ thuật phục vụ chiến đấu và sản xuất trong thời chiến. Tháng 2/1961, lớp ngắn hạn 6 tháng được mở với nhiệm vụ bồi dưỡng cho những người đang làm công tác mỹ thuật nghiệp dư của các hợp tác xã, công, nông trường, xí nghiệp nhằm để có thể vẽ tranh cổ động, khẩu hiệu, trang trí các cuộc lễ, hội nghị… Từ 8/1964 đến 10/1965 lớp Đồ họa do nhà trường kết hợp cùng Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng tổ chức với chương trình học tập trung vào hình họa, tranh cổ động, bìa sách, tranh khắc gỗ. Các học viên là người đã tốt nghiệp hệ trung cấp 3 năm và đang công tác tại các cơ quan văn hóa địa phương, các đơn vị quân đội, công an [2, tr. 8]. Năm 1967 khai giảng lớp Đồ họa khác với số lượng 20 người để bổ sung cán bộ kịp thời cho các địa phương trong tình hình sản xuất và chiến đấu chống Mỹ cứu nước.
Quang Thọ, Tập bắn, 1963. Nguồn: Bài lưu tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
Từ 1955 đến 1975 là giai đoạn đầy thử thách trong sự nghiệp của nhà trường. Công tác đào tạo không thể thực hiện liên tục tại Hà Nội. Ở nơi sơ tán, bắt nhịp với đời sống chiến tranh khốc liệt, dưới những mái nhà tranh, lũy tre làng hay những tán rừng các lớp học vẫn diễn ra cả ban ngày và ban đêm, tùy vào từng thời điểm cụ thể. Các bài học vẽ hình họa, trang trí, chuyên khoa; những buổi chấm bài, hội thảo khoa học đều đặn được thực hiện trong điều kiện tại chỗ. Ngoài ra, thầy và trò nhà trường còn thường xuyên có mặt ở những nơi chiến tranh ác liệt nhất: khu vực trọng điểm cầu Hàm Rồng của Thanh Hóa hay Vĩnh Linh, Cồn Cỏ, Đông Hà của vùng Quảng Bình - Quảng Trị, đường mòn Hồ Chí Minh.v.v. Đây là thời kỳ gian khổ nhưng đầy tự hào của nhà trường với những đóng góp về ký họa chiến trường đặc sắc, về sáng tạo tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu ngợi ca cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta để giải phóng và thống nhất đất nước.
Sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975, thực hiện nhiệm vụ cao cả của nhà nước, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam đã kịp thời cử cán bộ quản lý, giảng viên vào tiếp quản Trường Mỹ thuật Sài Gòn-Gia Định và Trường Mỹ thuật Huế. Sau đó còn nhiều giảng viên tiếp tục thỉnh giảng cho đến khi tình hình ổn định, qua đó để lại những dấu ấn về quan điểm và phong cách nghệ thuật tại hai trường này.
Cùng sự tái thiết đất nước sau khi thống nhất, nhà trường mở rộng quy mô đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu mới của công cuộc phát triển mỹ thuật Việt Nam. Năm 1977 mở khoa Đồ họa dựa trên những kết quả của Xưởng thực nghiệm Đồ họa hình thành từ năm 1974. Năm 1978 khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật ra đời. Vào thời điểm 1978, khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật là duy nhất ở trong nước đào tạo chuyên sâu lĩnh vực này, bổ sung miếng ghép vô cùng quan trọng và cần thiết trong đào tạo và phát triển toàn diện nền mỹ thuật. Sinh viên các khóa đầu của khoa đã trở thành những tác giả tiêu biểu, những nhà giáo nòng cốt phát triển hệ thống lý luận và lịch sử mỹ thuật ở Việt Nam.
Lúc này, quan điểm đào tạo của nhà trường đã có những chuyển biến nhất định về cách nhìn nghệ thuật. Quan điểm, mục tiêu thời kỳ này của trường là: chất lượng đào tạo vừa đảm bảo yêu cầu khoa học cơ bản, vừa phát huy năng lực sáng tạo của từng sinh viên [9], phản ánh tinh thần kế thừa quan điểm từ Trường Mỹ thuật Đông Dương. Vào những năm cuối thập niên 1970 - đầu 1980, các bài học hình họa nghiên cứu, bài học chuyên khoa đã cho thấy những tìm tòi mới trong tạo hình theo hướng hiện đại (modern), có khuynh hướng thoát ly hiện thực cứng nhắc. Dấu hiệu đó phần nào phản ánh nhận thức trong nhà trường về ngôn ngữ tạo hình theo hướng cởi mở và hội nhập, đòi hỏi sự khai phóng nhất định. Ý thức đó đã được thể hiện rõ trong những tác phẩm của các tác giả giai đoạn tiền Đổi mới, góp phần chuyển hướng thẩm mỹ của giai đoạn tiếp theo và cũng tạo dựng tên tuổi của các sinh viên tốt nghiệp thời gian này như Ca Lê Thắng, Lò An Quang, Đào Minh Tri, Lý Trực Sơn, Lê Anh Vân, Đỗ Sơn, Lương Xuân Đoàn, Đặng Thị Khuê, Đặng Xuân Hòa, Nguyễn Xuân Tiệp, ...
Những đổi mới về mỹ thuật nảy sinh từ nhà trường có cơ hội phát huy mạnh mẽ khi sự mở cửa của Việt Nam trở nên sâu sắc hơn vào những năm 1990 với quan điểm phát triển văn hóa nghệ thuật theo hướng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Những cuộc tiếp xúc trực tiếp với nghệ thuật phương Tây hiện đại và đương đại bắt đầu thông qua các dự án, workshop mang tính học thuật được sự hỗ trợ của các chuyên gia, nghệ sĩ từ nhiều nước khác nhau và họa sĩ Việt kiều. Định hướng đào tạo gắn với hội nhập và sự phát triển theo quy luật tự nhiên của nghệ thuật được quan tâm tiến hành bên cạnh những nghiên cứu, thúc đẩy cách tiếp cận mới, đa dạng hơn với di sản mỹ thuật truyền thống của dân tộc. Sự hợp tác được mở rộng vào những năm 1990 với các trường và tổ chức nghệ thuật của Đức, Úc, Canada, Pháp, Thái Lan… đã tạo những xung lực cho đổi mới quan niệm sáng tác và đào tạo trong trường, làm điểm tựa cho những bước đầu thực hành và phát triển các hình thức nghệ thuật đương đại ở Việt Nam. Các bài giảng và thuyết trình của chuyên gia Veronika Radulovic cùng dự án S.E.A dành cho sinh viên Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội đã tạo đà cho những thay đổi về quan niệm nghệ thuật, mở ra không gian cho tiếp cận và thử nghiệm các hình thức nghệ thuật đương đại như: Ý niệm, sắp đặt, trình diễn, video, ready made… Từ đó, tiếp nối truyền thống Mỹ thuật Đông Dương, nhà trường vẫn là địa chỉ dẫn đầu cho những đổi mới trong mỹ thuật tạo hình và xuất phát điểm của nghệ thuật đương đại Việt Nam với những khởi động và đóng góp quan trọng qua các tên tuổi như Trương Tân, Trần Lương, Trần Trọng Vũ, Đỗ Minh Tâm… và các lứa sinh viên tốt nghiệp vào giai đoạn 1995 - 2000.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về nâng cao, mở rộng đào tạo mỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế, năm 1997 trường mở hệ đào tạo cao học (trình độ Thạc sỹ) và năm 1998 mở khoa Sư phạm mỹ thuật. Đến đây, toàn bộ những gì cần cho sự phát triển đầy đủ hệ sinh thái mỹ thuật đã được triển khai đào tạo tại trường, khiến nơi đây trở thành trung tâm đào tạo mỹ thuật lớn và uy tín bậc nhất cung cấp nhân lực sáng tác, nghiên cứu, đào tạo và quản lý mỹ thuật của cả nước.
Kế thừa nền tảng và những thành quả mỹ thuật Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, vào đầu thế kỷ 21 nhà trường tiếp tục dẫn đầu trong các hoạt động mỹ thuật lớn, trong đó việc tổ chức Trại sáng tác điêu khắc quốc tế lần thứ nhất là sự kiện nổi bật và hết sức ý nghĩa, mở ra hình thức hoạt động mới và các góc nhìn đa diện về nghệ thuật điêu khắc ở Việt Nam. Từ đây, ngôn ngữ biểu hiện, trừu tượng của điêu khắc được ghi nhận và dần mở rộng trong thực hành sáng tác của các tác giả Việt Nam, trong đào tạo tại nhà trường.
Những dự án trao đổi nghệ thuật lớn giữa nhà trường và các cơ sở đào tạo, chuyên gia nghệ thuật nước ngoài, Việt kiều đã mở ra góc nhìn rộng hơn về nghệ thuật để dần hội nhập quốc tế. Nhà trường chủ trương: Phát huy tốt nhất tiềm năng người học, Trường là nơi trải nghiệm sáng tạo của người học.
Triển lãm bài sáng tác Tranh in đa chiều của lớp Đồ Họa K62, năm 2022
Nổi bật trong giai đoạn 2001 - 2006 là các dự án hợp tác với Trường Mỹ thuật Umea, Thụy Điển; với cơ quan phát triển văn hóa nghệ thuật Đức DAAD như: Tạo hình cho nước, Cây, Bình đẳng là gì ?, Ai kiếm tiền ?, Giới có phải vấn đề ?... Bên cạnh đó là các khóa học thực hành curator, các chủ đề trao đổi liên quan vấn đề di sản nghệ thuật, văn hóa truyền thống trong sáng tác đương đại; các triển lãm của các nghệ sĩ thị giác nổi tiếng thế giới tại trường. Tiếp đó nhà trường cử nhiều giảng viên tham gia các trại sáng tác quốc tế ở nước ngoài. Tất cả đã làm nên không khí học thuật, sáng tạo cởi mở, sôi nổi của một trung tâm đổi mới nghệ thuật Việt Nam. Những dự án, khóa học mang tính cập nhật, hội nhập với nghệ thuật quốc tế đã đem lại kết quả hết sức tích cực, không chỉ đưa vào thực hành nghệ thuật ở Việt Nam các khái niệm mới, mà còn tạo ra đội ngũ giảng viên trẻ của trường có tư duy mới, tạo nền móng cho việc đưa các hình thức nghệ thuật đương đại vào chương trình đào tạo, kích hoạt các hoạt động nghiên cứu, hội thảo khoa học xung quanh nghệ thuật đương đại. Những thành quả đó đang được phát huy trong đào tạo của nhà trường ngày hôm nay với những học phần sắp đặt, video art, ảnh nghệ thuật… Hơn thế, chúng còn góp phần phát triển tư duy và cái nhìn nghệ thuật mang tính ý niệm nhiều hơn trong sinh viên. Đặc biệt sau khi mang tên gọi Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, nhà trường đã có những bước đi mạnh mẽ, mới mẻ, tiếp tục khẳng định là trung tâm mỹ thuật hàng đầu của cả nước và khu vực.
Việc thay đổi cách tiếp cận nghệ thuật mang tính tích cực, cập nhật với quốc tế và bối cảnh sáng tác mỹ thuật ở trong nước diễn ra đều đặn trong giai đoạn sau 2010 và mang lại hiệu quả rõ rệt trong đào tạo của nhà trường từ khoảng 2015 đến nay. Các chuyên ngành Hội họa có những đổi mới tích cực, tranh sơn mài tiếp biến nhiều cái mới trong bối cảnh đương đại, tranh lụa có những mở rộng về không gian tác phẩm sang hướng nghệ thuật sắp đặt. Đồ họa và Điêu khắc có những chuyển biến khác biệt rõ rệt và mạnh mẽ. Các bài học sáng tác điêu khắc trở nên đa dạng hơn về hình thức, phong phú về chất liệu và ngôn ngữ khối, cách đặt vấn đề không gian. Đồ họa được mở rộng với đầy đủ các thể loại tranh in bố trí trong chương trình đào tạo. Đặc biệt hơn, đào tạo đồ họa có thêm các học phần gợi mở tư duy đa chiều, đậm tính đương đại và cập nhật với các chương trình quốc tế với các học phần “đồ họa mở” như: book art, tranh in đa chiều với các hình thức sắp đặt, tranh đa lớp, nghệ thuật giấy. Từ năm 2013 các học phần này mang lại sinh khí mới trong dạy và học ở ngành Đồ họa. Đối với trong nước, đây là những môn học chỉ có ở Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam và chúng đã tạo nên những chuyển biến quan trọng trong quan niệm về nghệ thuật đồ họa. Từ việc xuất hiện tại triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 2015, Festival Mỹ thuật trẻ 2017,... và các sự kiện mỹ thuật lớn, nhỏ tiếp theo ở Hà Nội, khái niệm và các tác phẩm Đồ họa mở của sinh viên nhà trường đã đạt nhiều giải thưởng cao, được sưu tập, được lan tỏa trong cộng đồng. Bằng cách đó nhà trường đã góp phần mở rộng các thực hành sáng tác mỹ thuật ở Việt Nam, bổ sung các hình thức nghệ thuật mới với một nền tảng học thuật vững vàng, trong đó có sự nghiên cứu nghiêm túc về tiếp biến các giá trị từ bên ngoài và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
Từ năm 2019, đặc biệt các năm 2023 - 2025, nhà trường thúc đẩy hợp tác quốc tế mạnh mẽ hơn với những hình thức mới và tập trung trọng tâm vào khu vực ASEAN, châu Á. Với việc tham gia vào liên minh các trường nghệ thuật ASEAN, ASEAN-Trung Quốc đã biến các hợp tác trở nên thiết thực và gần gũi hơn. Hợp tác với các trường đào tạo nghệ thuật Hàn Quốc, Thái Lan (trong và ngoài khuôn khổ Câu lạc bộ GoA9) đã có những kết quả cụ thể khi lần đầu tiên trường có 12 sinh viên hoàn thành kỳ học trao đổi tại Đại học Jeonju, Hàn Quốc; nhiều sinh viên tài năng được gửi đi Thái Lan, Singapore tham dự hội thảo và trại sáng tác quốc tế dành cho sinh viên.
Trong suốt quá trình thay đổi tên gọi và định hướng đào tạo ở mỗi giai đoạn, dưới những khẩu hiệu khác nhau, nhưng nhà trường (từ Mỹ thuật Đông Dương đến Mỹ thuật Việt Nam) luôn theo đuổi các giá trị cốt lõi nhất quán với phương châm phát huy tinh thần, di sản mỹ thuật truyền thống trong đổi mới sáng tạo, cách tân ngôn ngữ nghệ thuật nhằm phụng sự tốt nhất công cuộc phát triển một nền mỹ thuật hiện đại của Việt Nam, góp phần làm cho đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Các giá trị cốt lõi đó hôm nay được đúc kết bởi 3 yếu tố: BẢN SẮC – SÁNG TẠO – NHÂN VĂN.
1. Đóng góp vào kiến tạo nền mỹ thuật hiện đại và cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ đất nước
Hành trình một thế kỷ phát triển từ Trường Mỹ thuật Đông Dương đến Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam cũng là quá trình thể hiện vai trò dẫn đầu của nhà trường trong kiến tạo nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại và phụng sự đất nước. Mỗi giai đoạn nhỏ, thầy và trò nhà trường đều tiên phong trong tạo dựng phong cách, diện mạo mỹ thuật hiện đại Việt Nam, dẫn dắt trong các hoạt động, phong trào phục vụ sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước; phát triển nền mỹ thuật dân tộc và nâng cao thẩm mỹ, mở rộng đào tạo mỹ thuật ở các địa phương. Nhà trường đã cung cấp liên tục nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ quan, đơn vị hoạt động mỹ thuật, văn hóa nghệ thuật trên cả nước, lan tỏa các phong trào sáng tác phục vụ quân và dân trong chiến đấu và sản xuất, trong các đơn vị lực lượng vũ trang, nhà máy, xí nghiệp...
Trong lịch sử nhà trường, không ít học sinh, sinh viên, giảng viên đã cống hiến một phần hay cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc một cách trực tiếp trên các mặt trận nóng bỏng nơi chiến trường. Những lớp người ấy xông pha ra trận khi còn đang học, thậm chí sắp tốt nghiệp các lớp trung cấp, cao đẳng hay đại học. Đó là 54 người đi B, 8 người đi C. Đặc biệt, thầy Tô Ngọc Vân trong kháng chiến chống Pháp và 23 sinh viên đã anh dũng hy sinh trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, hiến dâng cuộc đời mình vì sự nghiệp vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
Với vai trò là trung tâm đào tạo mỹ thuật hàng đầu cả nước, đơn vị đào tạo có uy tín bậc nhất ở châu Á, qua một thế kỷ, nhà trường đã góp phần to lớn cho nền mỹ thuật và văn hóa Việt Nam hiện đại. Hầu hết các tác giả lớn, đại diện cho mỹ thuật hiện đại Việt Nam đều từng học tại trường. Đó là những ghi nhận rõ ràng qua thực tế 2. Trong 9 bảo vật quốc gia - những hiện vật tiêu biểu cho lịch sử mỹ thuật dân tộc được công nhận thì có 6 tác phẩm mỹ thuật hiện đại của các tác giả tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương: “Hai Thiếu nữ và em bé” của Tô Ngọc Vân, “Em Thúy” của Trần Văn Cẩn, “Bình phong sơn mài” của Nguyễn Gia Trí, “Kết Nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của Nguyễn Sáng, “Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc” của Dương Bích Liên, “Gióng” của Nguyễn Tư Nghiêm. Trong số 25 tác giả được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, có 23 tác giả từng học ở ngôi trường này. Giải thưởng Nhà nước ở lĩnh vực này cũng thuộc về phần lớn số tác giả thuộc các thế hệ khác nhau của nhà trường: 67/79 họa sĩ và nhà điêu khắc.
Tại các triển lãm lớn như: Triển lãm mỹ thuật toàn quốc, Triển lãm chuyên đề điêu khắc toàn quốc, Festival Mỹ thuật trẻ toàn quốc, Cuộc thi và triển lãm tranh đồ họa các nước Asean, ... thì hầu hết các tác phẩm được trao giải cao đều thuộc về những tác giả đã từng học tại trường. Cùng với đó, giải thưởng cao tại những cuộc thi do các đơn vị nước ngoài tổ chức như: Phillip Moris, Ánh mắt trẻ, UOB painting of the year cũng thường được trao cho các tác giả vốn là người học hay giảng viên của trường. Tất cả những thông tin, số liệu kể trên chỉ là một phần trong rất nhiều thành quả cụ thể để minh chứng cho đóng góp của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam đối với nền mỹ thuật nước nhà.
Nhìn lại một thế kỷ hình thành, phát triển - hành trình đầy vinh dự và tự hào của các thế hệ giảng viên, sinh viên, học viên dưới mái trường Mỹ thuật Đông Dương - Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Tên tuổi của những người thầy, những học trò và đặc biệt là những tác phẩm của họ đã tạo dựng nên nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam với đặc trưng riêng, giàu bản sắc văn hóa, góp tiếng nói đặc biệt trong môi trường nghệ thuật khu vực Đông Nam Á và quốc tế. Từ những bối cảnh thời đại trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20, mỹ thuật hiện đại Việt Nam được kiến tạo bởi chính các thế hệ người học của Trường Mỹ thuật Đông Dương, rồi tiếp đến là bao lớp họa sĩ, nhà điêu khắc từ Trường Mỹ thuật Việt Nam do chính họ đào tạo. Họ đã cụ thể hóa các quan điểm phát triển văn hóa, nghệ thuật dân tộc trong mỹ thuật, tạo ra những cách tân và góp phần định hình các khuynh hướng sáng tác mỹ thuật bao trùm cả nước trong các giai đoạn từ Đông Dương, qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm rồi đến Đổi mới, hội nhập quốc tế. Họ không chỉ kiến tạo nền mỹ thuật hiện đại và phụng sự đất nước bằng tác phẩm và các công trình nghiên cứu học thuật. Trong thời kỳ chiến tranh, không ít trong số họ đã cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Họ trở thành chủ thể kiến tạo mỹ thuật trong môi trường và cơ chế kiến tạo văn hóa chung của dân tộc trong một thế kỷ qua.
Tiếp nối truyền thống cao đẹp và đầy tự hào ấy, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam sẽ tận dụng mọi thời cơ, vượt qua những thách thức mới để tiến bước vững vàng trong mở rộng đào tạo, giữ vững vị thế và vươn mình mạnh mẽ hơn trong hệ thống các cơ sở đào tạo nghệ thuật khu vực Đông Nam Á và Châu Á./.
N.N.P
Tài liệu tham khảo 1. Charlotte Aguttes-Reynier (2023), L’Art moderne en Indochine – L’Ecole des beaux-arts de l’Indochine, Nghệ thuật hiện đại Đông Dương – Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, In Fine éditions d’art.
2. Nguyễn Nghĩa Duyện (2019), “Lớp đồ họa 18 tháng - những dấu ấn đầu tiên”, sách Nguyễn Nghĩa Duyện – các tác phẩm đồ họa, hội họa, Nxb. Mỹ thuật.
4. Hoàng Hằng (2013), “Những điều chưa biết về Trường Mỹ thuật Đông Dương”, Cục Văn thư và Lưu trữ quốc gia. https://luutru.gov.vn/nhung-dieu-chua-biet-ve-truong-my-thuat-dong-duong-247-vtlt.htm, đăng ngày 27/3/2013.
5. Vũ Hiệp (2022), Sự kiến tạo các nền nghệ thuật, Nxb. Mỹ thuật.
6. Trần Đình Sử (2013), “Phản ánh tức là kiến tạo (kiêm bàn phản ánh luận trong tầm nhìn hiện đại), https://trandinhsu.wordpress.com/2013/03/20/phan-anh-tuc-la-kien-tao-kiem-ban-phan-anh-luan-trong-tam-nhin-hien-dai/
7. Nguyễn Quang Thuấn (2017), “Từ Lý thuyết Kiến tạo đến Lý thuyết Kiến tạo xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu nước ngoài, Tập 33, Số 4 (2017), tr. 137-148.
8. Nguyễn Trung (2024), “Mối liên hệ giữa sứ mạng, tầm nhìn và chương trình đào tạo của Trường Mỹ thuật Đông Dương”, Hội thảo “Trường Mỹ thuật Đông Dương và sứ mạng lịch sử”, Trường Mỹ thuật Việt Nam.
9. Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (2005), Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội 1925-2005, Nxb Mỹ thuật 10. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2010), Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam bước vào thế kỷ 21, Nxb. Văn hóa-Thông tin.
11. Trường Mỹ thuật Việt Nam khóa Tô Ngọc Vân (1955 – 1957), Tạp chí Mỹ thuật online,https://tapchimythuat.vn/truong-my-thuat-viet-nam-khoa-to-ngoc-van-1955-1957/
12. Trường Mỹ thuật Việt Nam (1950 - 1957), https://danhhoa-tongocvan.blogspot.com/2018/10/truong-my-thuat-viet-nam-1950-1957.html